MỘT SỐ CÔNG TRÌNH TIÊU BIỂU THIẾT KẾ THEO DẠNG KIẾN TRÚC ĐỊA HÌNH CỦA KTS. ZAHA HADID

TS.KTS Trần Giang Nam

Địa điểm và địa hình đóng vai trò quan trọng trong thiết kế kiến trúc. Những công trình kiến trúc sẽ trở nên gần gũi, phù hợp khi nó là một phần mở rộng của địa hình khu vực đó. Nắm bắt được điều này, KTS. Zaha Hadid đã sử dụng và thiết kế một số công trình tiêu biểu dưới đây:

– Landesgartenschau – landscape formation one, 1996-1999

 Công trình được thiết kế và xây dựng cho một lễ hội làm vườn. Landscape formation one từ bỏ khái niệm xây dựng kiến trúc như một vật thể tách biệt, mà hình ảnh công trình chảy ra và hòa nhập vào cảnh quan xung quanh. Sử dụng một mạng lưới các lối đi phức tạp và các không gian đan xen để tạo ra một cấu trúc bao gồm một không gian triển lãm, quán cà phê và không gian trung tâm.

– Glasgow riverside museum of transport, 2004-2011

 Bảo tàng hình thành từ một dải dồn cong địa hình ở giữa và mở ở cả hai đầu, đường viền của nó bao quanh một con sóng hoặc nếp gấp, chảy từ thành phố đến bờ sông, tượng trưng cho mối quan hệ năng động giữa Glasgow và ngôi nhà đóng tàu, đi biển và nền công nghiệp bên sông Clyde. Mặt tiền toàn bằng kính trong suốt cho phép ánh sáng tràn ngập khắp không gian triển lãm chính của bảo tàng.

– Dubai Opera House by Zaha Hadid, 2006-2008

 Ý tưởng hình thành nên một khối cấu trúc uốn lượn và nổi bật, chứa tất cả các không gian chức năng. Hình thức của nó thoai thoải gợi hình ảnh núi non hay cồn cát. Kiến trúc nổi lên khỏi mặt đất, vừa là một phần của cảnh quan nhưng cũng là một yếu tố điểm nhấn trên đường chân trời. Kết hợp với công trình, không gian xung quanh hình thành các không gian công viên mở cũng như các chức năng phụ trợ như bãi đỗ xe và nhà ga, bên dưới lòng đất hoặc tích hợp vào hình thức công trình và cảnh quan.

– E.ON Energy Research Department, 2006-2010

 Các đường hiện trạng và cơ sở hạ tầng hiện có đóng vai trò là một tập hợp tạo hình thức địa hình chính cho Tòa nhà nghiên cứu mới tại Đại học RWTH – hình thành lên một cấu trúc hoạt động cộng sinh với các yếu tố nhân tạo và tự nhiên bao quanh nó. Một cấu trúc khai thác năng lượng tái tạo để tạo ra nhiều năng lượng hơn mức tiêu thụ.

– Heydar Aliyev Center, 2007-2012

 Là một phần của Liên Xô cũ, đô thị và kiến trúc của Baku, thủ đô của Azerbaijan trên bờ biển phía Tây của biển Caspi, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi quy hoạch của thời kỳ đó. Kể từ khi độc lập vào năm 1991, Azerbaijan đã đầu tư rất nhiều vào việc hiện đại hóa và phát triển cơ sở hạ tầng và kiến trúc của Baku trên cơ sở di sản của Chủ nghĩa hiện đại Xô viết chuẩn mực. Zaha Hadid được bỗ nhiệm làm kiến trúc sư thiết kế của Trung tâm Heydar Aliyev sau một cuộc thi vào năm 2007. Trung tâm được thiết kế để trở thành tòa nhà chính cho các chương trình văn hóa của quốc gia, phá vỡ kiến trúc Liên Xô cứng nhắc và thường hoành tráng vốn rất thịnh hành ở Baku. Thay vào đó, công trình  nằm trong không gian địa hình nổi bật, thể hiện mong muốn văn hóa Azeri và sự lạc quan của một quốc gia hướng tới tương lai.

Nguồn tham khảo:

https://www.dezeen.com/2008/06/06/dubai-opera-house-by-zaha-hadid/

https://www.zaha-hadid.com/architecture/glasgow-riverside-museum-of-transport/

https://www.zaha-hadid.com/architecture/landesgardenschau-landscape-formation-one/

–  https://www.zaha-hadid.com/architecture/e-on-energy-research-centre/

https://www.zaha-hadid.com/architecture/heydar-aliyev-centre/

https://archello.com/project/heydar-aliyev-center

Advertisement

TÍNH BẢN ĐỊA CỦA KIẾN TRÚC ART DECO HÀ NỘI

Bài báo này muốn viết về một phong cách Kiến trúc đã được phát triển rộng rãi ở trên thế giới vào những năm 1930 nhưng khi du nhập vào Việt nam, kiến trúc Art Deco đã có những tìm tòi, những giải pháp thích nghi với điều kiện khí hậu và văn hóa, xã hội Việt nam lúc bấy giờ để tạo nên  một phong cách mang đậm tính bản địa Việt Nam. Bài viết muốn chỉ ra những đặc điểm, giải pháp của những công trình kiến trúc Art Deco Hà nội mang tính phù hợp với điều kiện ở Việt Nam.  Qua đó muốn khẳng định mối quan hệ không thể tách rời giữa kiến trúc với môi trường tự nhiên cũng như môi trường xã hội để tạo nên nền Kiến trúc bền vững. Từ đó đưa ra những nhân tố tạo lập nên kiến trúc Việt Nam thời mới vừa dân tộc vừa hiện đại, làm cơ sở công việc sáng tác thiết kế hiện nay. Mặt khác, kiến trúc Art Deco là 1 nhân tố cấu thành di sản Kiến trúc Hà nội, nên nhận diện được giá trị, đặc điểm của nó để phục vụ cho công tác bảo tồn là rất cần thiết.   

Từ khóa: Kiến trúc Art Deco Hà nội, giải pháp kiến trúc, tính bản địa, khí hậu, văn hóa.

Nội dung bài báo bạn đọc xem tại đây!

Nhà ga TWA, New York – Nắm bắt tinh thần của chuyến bay

ThS. KTS. Nguyễn Thị Hồng Hương

“Mục đích của kiến ​​trúc là che chở và nâng cao cuộc sống của con người trên trái đất và để hoàn thành niềm tin của anh ta vào sự cao quý của sự tồn tại của anh ta” 

Eero Saarinen

Nhà ga TWA được xây dựng ở Mỹ sau chiến tranh. Nó như một biểu tượng của sự tự do, linh hoạt, sự tiến bộ trong kiến ​​trúc và một chuyến bay cho kỷ nguyên của nước Mỹ mới. 

Continue reading “Nhà ga TWA, New York – Nắm bắt tinh thần của chuyến bay”

CẤU TRÚC DẦM CHUYỂN: YẾU TỐ LÀM THAY ĐỔI TƯ DUY THIẾT KẾ NHÀ CAO TẦNG

Tác giả: KTS. Nguyễn Toàn Thắng

Sự phát triển nhà cao tầng trong các đô thị lớn tại Việt Nam là tất yếu. Đặc biệt, nhà cao tầng tại khu trung tâm của các thành phố Hà Nội, thành phố HCM với điều kiện quỹ đất rất chật hẹp có xu hướng phát triển mô hình nhà cao tầng hỗn hợp chức năng theo chiều thẳng đứng.

Continue reading “CẤU TRÚC DẦM CHUYỂN: YẾU TỐ LÀM THAY ĐỔI TƯ DUY THIẾT KẾ NHÀ CAO TẦNG”

THIẾT KẾ KHÔNG GIAN KHOA ĐIỀU TRỊ BẰNG PHƯƠNG PHÁP PHÓNG XẠ TRONG CÁC BỆNH VIỆN HIỆN ĐẠI

TS.KTS. Đỗ Trọng Chung, Trưởng Bộ môn Lý thuyết & Lịch sử kiến trúc, khoa Kiến trúc & Quy hoạch, trường đại học Xây dựng HN; địa chỉ: số 55 đường Giải phóng, quận Hai Bà Trưng, HN; ĐT di động: 0916636999.

Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, người ta phát hiện ra chất phóng xạ và nó được ứng dụng vào điều trị cho một số các tổn thương ung thư. Từ đó ngành trị xạ ra đời và phát triển không ngừng. Thông thường khoa điều trị bằng phương pháp phóng xạ hoạt động dưới hai dạng điều trị: một là sử dụng đồng vị phóng xạ và hai là dùng máy gia tốc tuyến tính. Đồng vị phóng xạ được sử dụng trị liệu phóng xạ sâu còn máy gia tốc tuyến tính sử dụng kỹ thuật để điều trị các bệnh [3]. Hiện nay đã sử dụng kỹ thuật CyberKnife – đó là thiết bị xạ phẫu chuyên dụng, cho phép điều trị phẫu thuật bằng tia xạ các tổn thương ở mọi vị trí trên cơ thể.
Việc nghiên cứu lý thuyết và thiết kế về không gian kiến trúc cho khoa điều trị bằng phương pháp phóng xạ (KĐTBPPPX) ở thế giới đã có từ khi nó ra đời, tuy nhiên những công nghệ và thiết bị của khoa KĐTBPPPX thay đổi liên tục nên vấn đề thiết kế và xây dựng không gian cho khoa này cũng phải phải thay đổi theo. ở Việt Nam việc hướng dẫn bằng lý thuyết thiết kế và xây dựng cho khoa điều trị bằng phương pháp phóng xạ được đề cập tới rất ít hoặc chưa sâu.
Vấn đề thiết kế và xây dựng khoa điều trị bằng phương pháp phóng xạ trong các bệnh viện hiện đại đòi hỏi sự chuẩn mực về dây chuyền công nghệ, các không gian phải đủ diện tích hoạt động của các thiết bị, thuận tiện cho các thao tác của các kỹ sư vật lý, nhân viên y tế và tiện nghi đối với người bệnh. Đồng thời công tác bảo đảm sự an toàn, tránh sự phát xạ do nguồn phóng xạ của các thiết bị gây ra cần phải lưu tâm đặc biệt.

Continue reading “THIẾT KẾ KHÔNG GIAN KHOA ĐIỀU TRỊ BẰNG PHƯƠNG PHÁP PHÓNG XẠ TRONG CÁC BỆNH VIỆN HIỆN ĐẠI”

VĂN HÓA VÀ KIẾN TRÚC

Tác giả: PGS.TS.KTS Nguyễn Đình Thi

Từ khi con người giao tiếp được với nhau thông qua hoạt động sinh hoạt, ăn uống, lao động sản xuất, trang phục, ngôn ngữ, kể chuyện dân gian truyền miệng, chữ viết, văn học, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc,… khi đó văn hóa bắt đầu xuất hiện và phát triển cùng với nền văn minh của nhân loại.

Loài người xuất hiện trên trái đất cách đây khoảng hơn 3 triệu năm, thời kỳ này tổ tiên loài người sống hoang giã phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, họ sống thành từng bầy bằng săn bắt, hái lượm, đào bới củ rễ. Văn hóa hình thành và phát triển khi con người phát hiện ra lửa và biết hợp tác với nhau để có thể săn bắn được những con thú lớn và hái lượm được nhiều hơn. Đến khoảng 3 vạn năm, con người dần chuyển từ sống du mục sang định canh, định cư và hình thành xã hội đầu tiên của loài người, đó là xã hội nguyên thủy.

Văn hóa ngày càng phát triển khi con người đã bước ra biết di chuyển dần xuống các vùng đồng bằng đất đai phì nhiêu lưu vực sông Nil ở Đông Bắc châu Phi lập nên nhà nước chiếm hữu nô lệ Ai Cập cổ đại, hình thành nên nền văn minh Ai Cập cổ đại, một cổ xưa và rực rỡ nhất lịch sử nhân loại. Cũng vào thời kỳ này tại vùng hạ lưu vùng đồng bằng hai con sông lớn là Tigre và Euphrates hình thành nên nền văn minh Lưỡng Hà và Ba Tư thuộc vùng Trung Cận Đông. Vào khoảng 3000 năm Tr.CN, nền văn hóa nhân loại tiếp tục phát triển nhờ vào sự sáng tạo ra chữ viết, thơ ca, truyện cổ tích, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc của cư dân Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại.

Cùng với hình thành văn hóa của các nền văn minh cổ đại, kiến trúc cũng được hình thành và phát triển theo. Thời kỳ đầu tiên, nhà ở trong xã hội nguyên thủy rất thô sơ do trình độ sản xuất thấp kém và lạc hậu, con người sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Nơi trú ẩn đầu tiên của con người là các tán cây, hốc cây, hang động. Qua quá trình tiến hóa, con người đã biết chinh phục, khai thác tự nhiên để tạo cho mình nơi cư trú cố định và ngày càng hoàn thiện không gian ở. Nhà ở thời kỳ đồ đá cũ rất đơn giản như đào hầm đất ven sông hồ, khoét các hang đá ven sườn núi, dùng liếp bằng vỏ cây, lá cây che chắn thô sơ, lấy thân cây ghép thành lều trên mặt đất hoặc trên thân cây, dần cải tiến thành lều hình tròn có mái hay chóp nón được xây dựng bằng đá hoặc kết bằng cành cây. Lều thường được làm bằng vỏ cây hay bằng đất đắp, phía trên đỉnh mái có trổ ô cửa nhỏ để lấy ánh sáng và thoát khói. Loại lều thường thấy ở châu Mỹ là loại làm bằng thân cây có lợp vỏ cây hoặc phủ bằng da hươu tuần lộc. Lều của người Exkimô vùng Bắc cực lại cư trú trong các lều được xây dựng bằng băng. Lều của người ở vùng sông Amua dựng lều hình yên ngựa. Lều người dân du mục vùng bắc Phi có hành dáng chữ nhật, bên trên che phủ bằng lá hoặc da thú.

Sau khi chế độ công xã nguyên thủy được xác lập thì cuộc sống du cư chuyển sang định cư, con người đã xây dựng cho mình nơi cư trú khác trước đây, đã xuất hiện loại nhà dài cho một hay nhiều gia đình với hàng chục hoặc hàng trăm người cùng sinh sống.

Thời kỳ đồ đá mới, kiến trúc đã phát triển tiến bộ cao hơn, con người từ bỏ lối sống du cư và định cư thành các làng xóm, nhà ở có nhiều gian, mỗi gian có bếp lò riêng. Thời kỳ này con người đã biết sử dụng nhiều loại vật liệu để xây dựng như đá phiến làm tường, móng hay mái nhà, gỗ làm khung nhà, cột và mái nhà.

Sang thời kỳ đồ đồng, nhờ vào phát minh nấu chảy kim loại và sử dụng công cụ lao động bằng kim loại để khai hoang, trồng trọi, xẻ gỗ đóng thuyền và xẻ đá dựng nhà nên việc xây dựng nhà ở cũng có nhiều tiến bộ hơn. Kiến trúc nhà ở đặc trưng giai đoạn này phải kể đến nhà ở của cư dân sống thành làng xóm đông đúc tại lưu vực sông Nil.

Như phân tích ở trên, văn hóa hình thành và phát triển cùng với các nền văn minh nhân loại, và nghệ thuật kiến trúc đã được sử dụng như một công cụ để biểu đạt nền văn hóa mỗi dân tộc trong nền văn minh ấy. Vì vậy, bài viết này muốn tập trung phân tích làm rõ mối quan hệ mật thiết giữa văn hóa và kiến trúc để góp phần vào đánh giá các giá trị kiến trúc cũng như phát triển kiến trúc cần bám sát vào giá trị văn hóa nhằm giữ gìn các giá trị văn hóa ẩn chứa trong kiến trúc đồng thời phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. 

Văn hóa có khái niệm rất rộng, ở đây chúng ta tập trung nghiên cứu những khái niệm văn hóa chung nhất để từ đó có thể làm rõ được mối quan hệ giữa văn hóa và kiến trúc.

Văn hóa được bắt nguồn từ chữ La tinh “Cultus” mà nghĩa gốc là gieo trồng, được dùng theo nghĩa “Cultus Agri” là gieo trồng ruộng đất và “Cultus Animi” là gieo trồng tinh thần.

Theo từ điển Hán Việt, văn hóa là kết quả chung của quá trình phát triển sáng tạo của loài người trong lịch sử, bao gồm các phương diện tôn giáo, đạo đức, nghệ thuật, khoa học,… 

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong lịch sử; là đời sống tinh thần của con người; là tri thức khoa học, trình độ học vấn; là lối sống, cách ứng xử có trình độ và là nền văn hóa một thời kì lịch sử, xác định được nhờ tổng thể các di vật tìm được có những đặc điểm chung [6].

UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: Là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồnvật chấttri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng văn học và nghệ thuật, cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin [7].

Từ đó có thể thấy văn hóa là tổng thể chung nhất những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử, trong lao động sản xuất, trong hoạt động thực tiễn, trong sáng tạo tri thức, sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên hay giữa con người với con người.

Kiến trúc là nghệ thuật tổ chức không gian, là hoạt động sáng tạo nhằm thỏa mãn những nhu cầu sinh hoạt vật chất và văn hóa tinh thần của con người [2].

Kiến trúc là nghệ thuật sáng tạo ra không gian sống, kiến tạo ra một môi trường nhân tạo thích nghi với môi trường tự nhiên và phục vụ tốt cho các điều kiện sinh hoạt của con người. Đồng thời kiến trúc còn là khoa học vì mục đích chất lượng cuộc sống, của yêu cầu sử dụng, vì tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ xây dựng xã hội bền vững [4].

Như vậy, có thể thấy kiến trúc là khoa học và nghệ thuật sáng tạo về xây dựng công trình, trang trí và tổ chức không gian sống phục vụ yêu cầu sinh hoạt vật chất và văn hóa tinh thần của con người và xã hội.

Một trong những đặc trưng cơ bản của văn hóa là văn hóa tính giá trị, tính giá trị của văn hóa là thước đo mức độ nhân văn của con người và cộng đồng xã hội đang nắm giữ nền văn hóa đó. Từ đó, văn hóa được xem là một thể thống nhất hữu cơ các giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy qua quá trình hoạt động sản xuất, mối quan hệ giao tiếp, tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Trong điều kiện của bài viết, chúng ta chỉ tập trung vào phân tích làm rõ mối quan hệ giữa văn hóa đối với kiến trúc thông qua đặc trưng cơ bản về tính giá trị của văn hóa, đó là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.

– Văn hóa vật chất với kiến trúc: Văn hóa vật chất gồm tất cả những sản phẩm vật thể, dụng cụ do con người trong xã hội sáng tạo và xây dựng mà có như những con đường đi lại; những công trình kiến trúc như nhà ở, đền thờ, chùa, miếu,…; các phương tiện giao thông, máy móc trang thiết bị, dụng cụ sử dụng trong đời sống sinh hoạt và sản xuất hàng ngày của con người.

Văn hóa vật chất phản ánh những giá trị văn hóa mà nền văn hóa cộng đồng đó coi là quan trọng nhất, ví dụ như đối với cộng đồng Hồi giáo, công trình kiến trúc được cho là có giá trị nhất thường là những công trình kiến trúc nhà thờ, những thánh đường; đối với cộng đồng Phật giáo thì công trình kiến trúc chùa thờ Phật là công trình có giá trị nhất; đối với một số cộng đồng nhỏ khác thì công trình trung tâm thương mại, công trình văn hóa, rạp chiếu phim đôi khi lại là quan trọng nhất.

Bàn về văn hóa vật chất, chắc chắn kiến trúc sẽ là vật chất đầu tiên mà con người cần quan tâm. Thứ nhất kiến trúc nhà ở ra đời sớm nhất cùng với sự xuất hiện và phát triển của nhân loại; thứ hai các công trình kiến trúc bao giờ cũng phản ánh văn hóa địa phương một cách khách quan bằng thực thể sinh động đó là các đô thị, là các công trình kiến trúc mà thị giác của con người rất dễ dàng quan sát được khi mới bắt đầu bước chân vào một vùng miền, một địa phương, một quốc gia nào đó; thứ ba khi sử dụng các trang thiết bị nội thất trong các công trình kiến trúc chính là những lúc mà nền văn hóa địa phương sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến người sử dụng, họ sẽ nhớ lâu nhất về  nền văn hóa địa phương thông qua các giá trị vật chất này; thứ tư tất cả các quốc gia trên thế giới, tại mỗi thành phố bao giờ cũng có một biểu tượng biểu trưng cho giá trị vật chất của thành phố, một trong những cái mà con người lưu lại trí nhớ nhiều nhất chính là biểu tượng một công trình kiến trúc đặc trưng cho thành phố, quốc gia đó. Ví dụ như khi đến với thành phố Hà Nội, biểu tượng công trình kiến trúc chính là Khuê Văn Các; khi đến đất nước Mỹ, biểu tượng kiến trúc phải kể đến công trình Tượng Nữ thần tự do đặt ở đảo Liberty, cảng New York; khi đến Trung Quốc thì biểu tượng của đất nước Trung Hoa là công trình kiến trúc Vạn lý trường thành và biểu tượng của đất nước Pháp chính là công trình Tháp Eiffel.

Hình ảnh Khuê Văn Các, biểu tượng văn hóa của Hà Nội

Hình ảnh Tượng Nữ thần tự do, biểu tượng văn hóa của nước Mỹ

Công trình kiến trúc Vạn lý trường thành là một trong những biểu tượng văn hóa của Trung Quốc

Tháp Eiffel, biểu tượng văn hóa của nước Pháp

– Văn hóa tinh thần với kiến trúc: Văn hóa tinh thần bao gồm hệ thống những ý niệm, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, giá trị, chuẩn mực, đạo đức,… Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần bao giờ cũng có mối liên hệ chặt chẽ và hữu cơ với nhau, có thể hiểu nếu văn hóa tinh thần là nội hàm cho khái niệm văn hóa thì văn hóa vật chất chính là ngoại diên của khái niệm văn hóa. Đối với kiến trúc nó bao hàm cả tinh thần và vật chất của văn hóa, văn hóa vật chất được biểu đạt ở hình khối, màu sắc, vật liệu, công nghệ xây dựng của công trình kiến trúc thì văn hóa tinh thần nó được thể hiện bên trong công trình kiến trúc, cái mà nó mang lại ý nghĩa, tình cảm cho con người sinh sống chung quanh nó; nó sẽ trả lời các câu hỏi đặt ra như giá trị sử dụng của công trình là gì? ý nghĩa hình khối và công năng kiến trúc công trình đối với con người là gì? giá trị văn hóa truyền thống địa phương của công trình như thế nào? mối quan hệ hữu cơ giữa vi khí hậu bên trong công trình và điều kiện khí hậu địa phương như thế nào? khả năng thích ứng với điều kiện địa hình, địa chất, thủy văn, với môi trường cảnh quan ra sao?

Kiến trúc biểu đạt giá trị văn hóa tinh thần thông qua việc các thể chế xã hội đương thời thường sử dụng công trình kiến trúc làm công cụ giáo huấn và lãnh đạo người dân của mình cũng như người dân sử dụng công trình kiến trúc để biểu đạt tình cảm, ước muốn, nguyện vọng của bản thân mình. Mặt khác kiến trúc còn biểu đạt giá trị văn hóa tinh thần thông qua biểu tượng văn hóa của mỗi địa phương, mỗi quốc gia. Như vậy, có thể nói kiến trúc thể hiện được tất cả các giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của một địa điểm, một địa phương và một quốc gia. 

Lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên gắn với kiến trúc ngôi nhà Rông

Lễ hội dân tộc Mường, Tây Bắc gắn với kiến trúc ngôi nhà Sàn truyền thống

Lễ hội hát dân ca Quan Họ Kinh Bắc gắn với kiến trúc Đình làng

Tóm lại, văn hóa xuất hiện và phát triển cùng với nền văn minh nhân loại và chỉ được hoàn thiện khi có các hoạt động giao tiếp con người thông qua hoạt động sinh hoạt, lao động sản xuất, ăn mặc, ngôn ngữ, chữ viết, văn học, nghệ thuật,… Văn hóa là bao gồm những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lao động sản xuất, sáng tạo tri thức, sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên hay giữa con người với nhau.

Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần có mối liên hệ biện chứng với nhau, cùng hỗ trợ ra đời và tự mất đi khi một trong hai yếu tố này không còn nữa. Trong đó, kiến trúc được cho là đại diện giúp biểu đạt cho cả hai yếu tố văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, bằng thị giác sẽ giúp con người cảm nhận, giao tiếp được với công trình kiến trúc thông qua biểu đạt về hình ảnh, ngôn ngữ, tình cảm, lời giáo huấn, sự sẻ chia của công trình kiến trúc. Từ đó có thể nói văn hóa và kiến trúc luôn song hành cùng nhau và kiến trúc dựa vào văn hóa để biểu đạt hình ảnh của mình cũng như làm giàu thêm, phong phú thêm cho văn hóa.

Như vậy, không chỉ có kiến trúc mà tất cả các ngành nghệ thuật nói chung đều góp phần làm tôn vinh văn hóa, nhất là văn hóa dân tộc nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Tài liệu tham khảo

[1] Huỳnh Công Bá (2012), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Thuận Hóa, Huế.

[2] Đặng Thái Hoàng (1997), Sáng tác kiến trúc, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

[3] Hoàng Đạo Kính (2012), Văn hóa kiến trúc, NXB Tri thức, Hà Nội.

[4] Nguyễn Đức Thiềm (2012), Khái niệm kiến trúc và cơ sở sáng tác, NXB Xây dựng, Hà Nội.

[5] Nguyễn Đình Thi (chủ biên) – Nguyễn Tất Thắng (2022), Văn hóa và Kiến, NXB Xây dựng, Hà Nội.

[6] Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam (1999),  Đại từ điển Tiếng Việt, Bộ Giáo dục và Đào tạo, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

[7] Viện Thống kê UNESCO (UIS) (2009), Khung thống kê văn hóa Unesco 2009 (FCS), Viện thống kê UNESCO P.O. Box 6128, Succursale Centre-Ville, Montreal, Quebec  H3C 3J7 Canada.

[8] David Levinson, Melvin Ember (1996), Encyclopedia of Cultural Anthropology (1,2,3,4) – New York, Henry Holt and Company.

[9] Kroeber, A. L., & Kluckhohn, C. (1952). Culture: a critical review of concepts and definitions, Papers. Peabody Museum of Archaeology & Ethnology, Harvard University, N°1.

Ngôi nhà nguyện tạo nên bởi 61 khúc gỗ ở rừng xứ Bavarian

This slideshow requires JavaScript.

Được tạo ra như một nơi nghỉ ngơi và suy tư, nhà nguyện gỗ của John Pawson ở tây nam nước Đức theo truyền thống lâu đời của vùng. Tác phẩm kiến ​​trúc mộc mạc, tối giản này vươn lên nhẹ nhàng cùng với cảnh quan, những khúc gỗ thô ráp hòa quyện vào bối cảnh xung quanh. Pawson được Quỹ Siegfried và Elfriede Denzel ủy quyền để tạo ra nhà nguyện hiện đại như một phần của dự án Sieben Kapellen (Seven Chapels), nhằm mục đích tạo ra những những không giang riêng cho người đi xe đạp dừng chân.

Continue reading “Ngôi nhà nguyện tạo nên bởi 61 khúc gỗ ở rừng xứ Bavarian”