Ths.Kts. Ngô Việt Anh
TÓM TẮT
Dân tộc Hmong có lịch sử và văn hóa đặc trưng và đa dạng, cư trú với số lượng lớn trên Cao nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang). Cấu trúc làng bản, nhà cửa người Hmong trải qua nhiều thế kỷ đã thích nghi và thuận hòa với điều kiện xã hội và những yếu tố tự nhiên bản địa tại đây. Trong bối cảnh đương đại, khu vực cư trú này của họ đứng trước những cơ hội cũng như thách thức của việc chuyển dịch cơ cấu từ đời sống thuần nông nghiệp sang dịch vụ du lịch. Bài tham luận sẽ đưa ra một vài suy nghĩ về việc kế thừa, gìn giữ những bản sắc của kiến trúc truyền thống Hmong mà vẫn đảm bảo được những yêu cầu mới về công năng, tiện nghi hiện đại hơn để phục vụ phát triển kinh tế nhờ hoạt động du lịch này.
Từ khóa: Kiến trúc truyền thống, dân tộc, Hmong, du lịch, cao nguyên đá Hà Giang
- GIỚI thiệu chung
Người Hmong (Miao, Miêu, Mèo) là một dân tộc thiểu số quan trọng có dân số đứng thứ 5 tại Việt Nam (gần 1,4 triệu người) [1] phân bố chủ yếu tại các tỉnh miền núi phía Bắc. Người Hmong có nguồn gốc hàng ngàn năm lịch sử, theo sử thi họ đã trải qua những cuộc thiên di từ châu Âu tới vùng Siberia (Cận Bắc Cực) rồi xuống đồng bằng sông Hoàng Hà, sau những cuộc chiến tranh giành lãnh thổ với chính quyền trung ương phong kiến tập quyền (Hán, Tống, Nguyên, Minh) qua nhiều thế kỷ đã phải phiêu dạt dần xuống những vùng núi phía nam Trung Quốc. Đến triều nhà Thanh, cộng đồng Hmong đứng trước nguy cơ bị đồng hóa hoặc bị tàn sát, đã phải di cư chạy trốn sang các quốc gia lân cận như Bắc Lào, Bắc Thái Lan và Việt Nam. Chính những nhóm người Hmong di cư không chịu áp bức của chính quyền và không chấp nhận sự đồng hóa văn hóa Trung Hoa này đã mang sang Việt Nam những giá trị truyền thống còn nguyên vẹn nhất (Raw Hmong).
Địa điểm đầu tiên khi người Hmong sang Việt Nam định cư với quy mô lớn khoảng hơn 200 năm trước (1815-1818) [3] là tại khu vực Cao nguyên đá, bao gồm địa giới nằm trong 4 huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc của tỉnh Hà Giang. Khu vực này với địa hình núi đá tai mèo hiểm trở, tách biệt với những vùng đất xung quanh, đã tạo ra địa thế thuận lợi để người Hmong xây dựng một thiết chế xã hội tự trị, tương đối độc lập với chính quyền phong kiến Việt Nam và sau này là chính quyền thuộc địa Pháp. Với bản chất là một lực lượng quân sự lưu vong với nhiều đợt di dân số lượng lớn, mang theo kinh nghiệm chiến đấu ưu việt và bản tính tự do không chịu quản chế bởi các thế lực khác, người Hmong sang chung sống bên cạnh các các tộc người bản địa đến trước (Dao, Tày, Nùng…) nhưng đã ngay lập tức áp đặt được ảnh hưởng mạnh và trở thành lực lượng cai trị vùng đất này cho tới tận thời kỳ 1954, lãnh đạo nhân dân các dân tộc thiểu số khác trong các cuộc kháng chiến với quân đội nhà Thanh, quân Cờ Đen, chống nhiều nhóm thổ phỉ cướp bóc từ biên giới Trung Quốc, bảo tiêu cho hoạt động buôn bán thuốc phiện và tham gia cùng Việt Minh chống thực dân Pháp.
Tại Hà Giang hiện nay có khoảng 293,000 người Hmong đang sinh sống (chiếm hơn 1/3 dân số toàn tỉnh và là địa phương đông người Hmong nhất ở nước ta), riêng tại khu vực Cao nguyên đá có tới khoảng 160,000 người Hmong (chủ yếu là người Hmong trắng), chiếm tới hơn nửa tổng số người Hmong tại Hà Giang và 11,5% tổng số người Hmong tại Việt Nam [1]. Chính vì vậy, có thể coi đây là một phạm vi nghiên cứu tiêu biểu và đặc trưng về người Hmong.
Với một biên niên sử trải qua nhiều thăng trầm như vậy, người Hmong là một dân tộc có những đặc điểm về văn hóa, lịch sử, dân tộc học hết sức đặc trưng và tiêu biểu thể hiện qua những tập tục, giao ước xã hội, lễ hội, trang phục, ẩm thực và cả cách tổ chức nhà cửa. Cấu trúc tổ chức làng bản cũng như cấu trúc các công trình của người Hmong trải qua nhiều thế kỷ đã thích nghi thuận hòa với những yếu tố bản địa tại vùng đất họ cư trú và mang bản sắc đặc biệt.
- Những đặc điểm không gian kiến trúc truyền thống người Hmong tại cao nguyên đá Hà Giang
- Tổ chức quy hoạch làng bản
Với nguồn gốc và bối cảnh lịch sử kể trên, hệ thống làng bản người Hmong tại Cao nguyên đá Hà Giang có tính chất ưu tiên đặc biệt cho việc phòng thủ quân sự. Đặc điểm này thể hiện bằng hệ thống hàng rào đá đặc trưng, nhằm mục đích bảo vệ người, gia súc và của cải. Có thể là cả làng được bao bọc bởi một hệ thống rào đá (có thể cao tới 2m) với lối ra vào qua các cổng gác thuận tiện cho việc kiểm soát và phòng thủ, hoặc chia nhỏ thành từng cụm 3-4 nhà trong một hàng rào.
Cấu trúc tổ chức làng bản cũng chia ra thành mấy dạng hình thức cư trú chính [2]:
- Dạng 1: Phân bố trong một khối dài nương theo địa thế của đồi núi, bờ suối. Mỗi nóc nhà cách nhau chỉ vài chục met, hoặc tách nhau bởi các con đường mòn.
- Dạng 2: Phân bố thành hình vành khăn, từ lưng chừng núi lên dần đến đỉnh núi. Việc tổ chức này làm toàn bộ làng bản trở thành một khối thống nhất, chồng lớp, dễ cho việc phòng thủ, từ nhà nào cũng có góc nhìn để phát hiện nguy hiểm ở phía trước để báo động cho cả bản.
- Dạng 3: Phân bố quây quần sát nhau, cùng nhìn về một hướng. Những dạng nhà này dễ thấy ở các mặt đường lớn, hoặc trung tâm các thị trấn (Phố Bảng, Phố Cáo, Sủng Là, thị trấn Đồng Văn…)
- Dạng 4: Phân bố lẻ tẻ, rải rác vài nhà ven sườn núi hoặc trên những mô đất nhỏ.
Hình 1. Một số dạng cư trú tổ chức làng bản người Hmong ở Cao nguyên đá Hà Giang.
Trong các làng bản Hmong, thiết chế dòng họ được đặt ở vị trí quan trọng. Trong một bản có thể chia thành các khu vực riêng của các dòng họ. Các bản hiện tại có thể có 30-50 hộ là phổ biến. Trong không gian một làng bản có các khu vực công cộng chung như bãi chơi, bãi thả trâu bò, hoặc khu lò rèn.
- Tổ chức không gian kiến trúc nhà ở
Người Hmong sống ở nhà mặt đất, chưa có một nơi nào đồng bào Hmong ở nhà sàn [4]. Có thể lý giải về điều này là vì người Hmong sống ở lưng chừng tới đỉnh các dãy núi cao, không quá gần sông suối, hầu như đều là các vùng khô ráo với nhiệt độ trung bình thấp, nên không cần sử dụng nhà sàn như một giải pháp chống nồm ẩm, tạo sự khô thoáng trong sinh hoạt. Vùng Cao nguyên đá Hà Giang là một khu vực núi đá tai mèo khí hậu khô cằn lạnh giá bậc nhất nước ta. Ở đây cũng không có sự hiện diện của những loài thú dữ (hổ, báo, gấu…) như ở các miền rừng núi khác nên tác dụng tránh thú dữ của nhà sàn cũng không cần thiết.
Ngược lại, họ cần một ngôi nhà nằm sát mặt đất, kín đáo để giữ ấm, cũng như để đảm bảo an toàn cho người sống bên trong trước kẻ thù cướp bóc với vũ khí và súng đạn. Nhà người Hmong thường dựng trên một nền chắc chắn khá cao so với sân, xung quanh nền có thể có kè đá. Đặc điểm đặc trưng nhất của nhà người Hmong ở khu vực Cao nguyên đá chính là hầu như đều sử dụng kỹ thuật trình tường: những bức tường bên ngoài rất dày (60-80cm) được tạo ra bởi đất sét tại chỗ phối trộn cùng một số phụ gia hữu cơ, được đập nén thủ công, ưu việt về chống chịu giá lạnh và tăng khả năng phòng thủ. Thứ hai là việc sử dụng kỹ thuật xếp đá thành các bức tường rào bảo vệ ngôi nhà mà không cần sử dụng vật liệu kết dính. Hệ mái truyền thống được sử dụng ngói nung âm dương bền và cách nhiệt tốt (chứ không làm bằng cỏ tranh, rơm rạ hay ván gỗ xẻ như nhà người Hmong tại một số vùng khác).
Hình 2. Một ngôi nhà cổ còn tương đối nguyên vẹn với hàng rào đá, tường trình, mái âm dương tại Sủng Là, Đồng Văn. Căn nhà là bối cảnh cho bộ phim “Chuyện của Pao”.
Trong các bản Hmong thường có sự phân hóa giai cấp, những người giữ chức tước quan lại địa phương có kinh tế khá giả và những hộ gia đình bình thường sống trong các ngôi nhà khác nhau về quy mô công trình: diện tích (số gian nhà) và số tầng nhà. Trong một bản có một (vài) ngôi nhà hai tầng, còn lại là nhà một tầng. Những ngôi nhà của người dân là nhà ba gian. Những gia đình khá giả hơn sống ở ngôi nhà năm gian, hoặc năm gian hai chái. Những ngôi nhà lớn hơn nữa là dinh thự của các thủ lĩnh địa phương có kiểu cấu trúc tứ hợp viện với các sân trong, vừa là nơi ở, vừa là nơi làm việc, xét xử pháp luật, kho tàng… Tuy nhiên dù ở quy mô nào, các ngôi nhà của người Hmong cũng đều hình thành trên cơ sở bộ khung nhà gồm hệ cột – vì kèo làm bằng gỗ nên có các tỷ lệ tương đối hài hòa thống nhất (chỉ sử dụng vì kèo ba cột hoặc bốn cột). Một phần cũng vì nguồn nguyên liệu hạn chế đến từ loại cây bản địa phổ biến chủ yếu ở đây là sa mộc với kích thước tương đối đồng đều, phải là những vị hào phú, lãnh chúa mới có thể dựng các ngôi nhà với kích thước lớn hơn bằng vật liệu vận chuyển từ xa tới. Các ngôi nhà hai tầng quy mô lớn này đều sử dụng nhiều tường, vách, cầu thang, lan can… bên trong làm bằng gỗ.
Hình 3. Hai ngôi nhà cổ dưới dạng dinh thự của các thủ lĩnh Hmong: Nhà cổ họ Vừ ở Há Súng, Lũng Táo và Dinh nhà Vương ở Sà Phìn, Đồng Văn.
Ngôi nhà người Hmong thông thường diện tích vừa phải, phục vụ quy mô gia đình nhỏ, ít thế hệ. Bên trong ngôi nhà Hmong cơ bản này có cấu trúc không gian với nhiều vách ngăn chia các phòng ngủ, cửa đi nhỏ, khép kín. Hệ cửa sổ trong nhà cũng rất ít, hạn chế việc tiếp xúc trực tiếp với bên ngoài. Cửa chính ở giữa, bên trong là khu vực tiếp khách và quan trọng nhất là khu vực thờ cúng, hai gian bên có thể có tới hai bếp lửa (một bếp nấu, một bếp sưởi). Trong nhà có cầu thang lên gác xép áp mái, nơi được sử dụng với chức năng là kho trữ lương thực, đồ đạc. Bên trong có nhà có cối xay, khung cửi, máy khâu. Chuồng gia súc (trâu, bò, dê, ngựa) được đặt ở ngay bên ngoài sát nhà.
Hình 4. Sơ đồ mặt bằng sinh hoạt một ngôi nhà Hmong ba gian một tầng truyền thống.
- Kế thừa kiến trúc truyền thống người Hmong trong phát triển du lịch tại cao nguyên đá Hà Giang
- Những cơ sở
Ngày 03/10/2010, Công viên địa chất Cao nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang) đã được UNESCO chính thức công nhận là “Công viên địa chất toàn cầu”. Năm 2017, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia Cao nguyên đá đến năm 2025, tầm nhìn 2030”. Trong những năm gần đây, Cao nguyên đá luôn là một điểm đến hàng đầu trong việc thu hút khách du lịch trong và ngoài nước (hàng triệu lượt khách mỗi năm), luôn nằm trong các kế hoạch trọng điểm quảng bá và phát triển du lịch của Bộ Văn hóa- Thể thao- Du lịch, thậm chí luôn là địa danh mang tính biểu tượng cho du lịch Việt Nam.
Theo công bố Kết quả rà soát hộ nghèo 2021 của Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội, Hà Giang là tỉnh có tỷ lệ số hộ nghèo đứng thứ hai cả nước, trong đó cả 4 huyện nằm trong địa giới khu vực Cao nguyên đá đều là những huyện nghèo nhất tỉnh. Phát triển du lịch đã được đề xuất chính là phương án xóa đói giảm nghèo tốt nhất ở vùng cảnh quan đá vôi ở biên giới Việt Nam và Trung Quốc [5], bởi hệ thống di sản thiên nhiên đá vôi trùng điệp với vẻ đẹp độc đáo thu hút khách du lịch lại là lý do chính gây ra sự nghèo đói của cộng đồng người bản địa: giao thông khó khăn, cản trở kinh tế – y tế – giáo dục, nông nghiệp cực kỳ hạn chế do đất ở, đất canh tác, đất sản xuất và cả nguồn nước cũng vô cùng khan hiếm. Chính vì vậy, việc chuyển dịch sang phát triển du lịch là một cơ hội lớn cho địa phương nói chung cũng như mỗi cộng đồng cư dân bản địa tại đây được hưởng lợi từ du lịch di sản.
Nhưng bên cạnh đó, với việc trở thành một địa điểm du lịch cấp quốc gia, nơi đây sẽ chịu một thách thức lớn từ sức ép của việc phải phục vụ cho dịch vụ lưu trú của hàng triệu lượt khách trong một năm. Họ đến đây ngoài vì thiên nhiên hùng vĩ, còn muốn khám phá và trải nghiệm các yếu tố văn hóa bản địa tại các làng bản truyền thống. Bằng một cách rất tự nhiên, làng bản của người Hmong với cấu trúc cộng đồng còn giữ được tương đối nguyên vẹn đều nằm ở vị trí thường cao hơn so với địa bàn cư trú của các tộc người khác trong vùng, nương theo địa thế, nương theo các yếu tố cảnh quan và có tầm nhìn rộng bao quát tốt nhất với mục đích ban đầu là phòng thủ quân sự, lại trở thành vị trí đắc địa nhất, thành những địa điểm tốt nhất với view ngắm cảnh đẹp nhất dành cho du lịch hiện đại. Ngoài ra các làng bản này tự thân cũng chính là những đối tượng cảnh quan tuyệt đẹp, từng con đường, rặng cây chính là những bối cảnh giao hòa cùng tự nhiên đầy hấp dẫn.
Trong quá trình phát triển về số lượng các cơ sở lưu trú, sẽ phải tuân thủ các tiêu chuẩn xây dựng- quy hoạch để đảm bảo không phá vỡ cấu trúc- cảnh quan thiên nhiên nên sẽ rất thiếu hợp lý nếu đầu tư xây dựng thêm các công trình cao tầng hay bêtông hóa. Nguồn “nguyên liệu” sẵn có chính là hàng trăm ngôi nhà truyền thống rất hài hòa với bối cảnh đang chờ chuyển đổi mục đích sử dụng. Đây chính là cơ sở quan trọng, là cơ hội cho việc kế thừa các kiến trúc truyền thống bản địa của người Hmong tại các bản làng truyền thống để phát triển du lịch tại chính địa phương với nguồn lao động vận hành sẵn có.
- Những không gian mới kế thừa từ không gian truyền thống
Không gian của ngôi nhà phục vụ du lịch hiện đại cần bố cục mở với cửa sổ rộng có tầm nhìn, có khả năng biến đổi linh hoạt phòng phục vụ số lượng khách tùy theo đoàn, có những không gian sinh hoạt chung đa năng rộng thoáng. Đây có lẽ là lý do nhà sàn với một mặt bằng tự do rộng rãi của các dân tộc như Tày, Nùng, Thái lại rất dễ dàng chuyển đổi chức năng phục vụ du lịch cộng đồng. Ngôi nhà người Hmong ba gian cơ bản với nhiều các vách dày, mặt bằng khép kín, ít cửa, diện tích nhỏ, là một thách thức cho việc cải tạo chuyển đổi mục đích sử dụng.
Tuy nhiên nhờ việc cấu trúc ngôi nhà Hmong vẫn dựa trên hệ kết cấu vì kèo, nên việc thay đổi bố trí lại mặt bằng cũng hoàn toàn khả thi. Những không gian mới với hệ thống kỹ thuật mới xuất hiện để phục vụ lưu trú như khu vực nhà bếp hay khu vực nhà WC khép kín có thể cấy ghép trực tiếp vào bên trong hoặc hợp khối bên cạnh với khối nhà cũ. Các ngôi nhà nhỏ thường được bố trí quây quần theo các dòng họ, nên cũng có thể biến đổi chúng thành kiểu bungalow khép kín riêng biệt, tăng được tính riêng tư và tăng giá trị kinh doanh hơn là dorm tập thể, mà vẫn dễ dàng vận hành do chủ nhà đều là người trong cùng một nhà, một họ.
Việc thiếu không gian sử dụng cũng có thể được khắc phục với việc mở rộng các gian nhà theo hệ bước cột nguyên bản hoặc mở thêm các chái nhà ở hai bên. Ngoài ra, có thể ưu tiên cải tạo các ngôi nhà hai tầng sẽ cung cấp giải pháp lưu trú với nhiều phòng hơn, với ban công, hành lang và sân trong – đây cũng thường là những công trình được giữ gìn qua thời gian và có giá trị kiến trúc cao hơn. Bên cạnh việc lưu trú, các ngôi nhà Hmong còn có thể được thay đổi mục đích sử dụng như thành nhà hàng, hoặc trung tâm thông tin du lịch, triển lãm…
Một việc làm thiết thực và quan trọng nữa là hệ thống hóa các đặc điểm kiến trúc truyền thống người Hmong (các kích thước, tỷ lệ, chi tiết kiến trúc, màu sắc, họa tiết, nội thất….) sau đó áp dụng vào việc xây dựng các ngôi nhà mới. Giữ gìn kỹ thuật thi công đặc trưng truyền thống (hệ vì kèo, trình tường, xếp đá, ngói âm dương…), sử dụng những nguyên liệu truyền thống thô mộc mang đầy chất cảm được thực hiện bởi thợ thi công địa phương, tiếp tục xây dựng những ngôi nhà mới với mặt bằng công năng và hình khối mới phù hợp thời đại, nhưng vẫn mang tinh thần và dáng vẻ hòa hợp với tổng thể để tiếp tục phát triển từ những kế thừa.
Hình 5. Một số ngôi nhà đang được xây dựng mới thành homestay trên địa bàn huyện Đồng Văn theo lối cũ với tỷ lệ truyền thống nhưng có cấu trúc mặt bằng hiện đại.
- Một vài ví dụ điển hình
- Cafe Phố cổ (Đồng Văn)
Hình 6. Không gian quán café phố cổ Đồng Văn sau khi được cải tạo và đưa vào sử dụng.
Ngôi nhà hai tầng nằm ở ngay trung tâm của thị trấn Đồng Văn, nằm cạnh chợ cổ Đồng Văn, có tuổi đời gần 100 năm. Chủ đầu tư đã cải tạo không gian thông qua việc tổ chức lại công năng của một quán cafe với quầy pha chế, kho, WC khép kín, giải phóng các vách tường ngăn phòng để tạo không gian thoáng rộng phục vụ khách hàng. Một số vị trí cửa đã được mở rộng. Sân trong đã được chuyển đổi chức năng thành khu bàn ghế uống cafe ngoài trời. Sau khi được chuyển đổi mục đích sử dụng, quán cafe này đã trở thành một địa điểm phải ghé thăm của các du khách khi tới thị trấn Đồng Văn, vì vị trí đắc địa, tầm nhìn đẹp và không gian bên trong mang giá trị bản địa đặc biệt.
- Nhà cổ Chúng Pủa (Mèo Vạc)
Năm 2013, chủ đầu tư tư nhân trùng tu cải tạo từ một căn nhà cổ người Hmong trắng hơn 130 năm tuổi đã xuống cấp trở thành Homestay Auberge de Meovac, homestay được coi là đẹp nhất với mức giá phòng cao nhất tại Cao nguyên đá. Giữ nguyên vẹn phần kết cấu ban đầu, chủ đầu tư tiến hành thay đổi chái nhà bên trái mở ra một không gian rộng làm phòng dorm nhiều người, bên dưới tầng 1 mở thoáng trở thành nhà hàng và quầy bar, nơi chái nhà bên phải được dỡ bỏ để tăng diện tích cho sân vườn và thêm công năng mới là khu bàn ăn ngoài trời. Các phòng ngủ được giữ nguyên theo hiện trạng nhưng cải tạo nội thất để gia tăng tiện nghi. Khối nhà vệ sinh với trang thiết bị hiện đại được xây mới kết nối ngay bên sau nhà, nhưng bằng hình thức mặt đứng theo kiểu xếp đá truyền thống.
Hình 7. Quá trình từ hiện trạng đến các giai đoạn cải tạo nhà cổ Chúng Pủa (Mèo Vạc)
Ngôi nhà sau cải tạo và nâng cấp hiện đại theo bố cục chữ L khác hẳn với cấu trúc đăng đối truyền thống, nhưng vẫn giữ nguyên vẹn tinh thần và bản sắc. Nhà cổ Chúng Pủa hiện nay là một trong hệ thống các điểm tham quan của Khu du lịch quốc gia Cao nguyên đá, xuất hiện trong rất nhiều ấn phẩm, báo chí, là bối cảnh của nhiều sản phẩm thời trang và nhiếp ảnh.
Hình 7. Nhà cổ Chúng Pủa (Mèo Vạc) sau khi cải tạo và đưa vào hoạt động.
- Kết Luận
Việc kế thừa các giá trị của kiến trúc truyền thống người Hmong trong phát triển du lịch, ứng dụng trong các công trình dịch vụ – lưu trú là một việc làm cấp thiết, trong bối cảnh Cao nguyên đá Hà Giang đang xảy ra quá trình đô thị hóa – xây dựng ồ ạt tăng mạnh theo tốc độ phát triển kinh tế mà ngành du lịch đang tạo ra hiện nay. Nó vừa là cơ hội, vừa là thách thức cho ba bên: công tác quản lý của chính quyền địa phương, những nhà đầu tư và đặc biệt là cộng đồng người dân Hmong bản địa. Đó cũng là một kim chỉ nam định hướng cho các dự án thiết kế cải tạo hoặc xây mới tại đây khi đã có những chỉ dẫn rất cụ thể về phong cách, vật liệu, kết cấu, cách tổ chức hình thái và không gian được đồng bào Hmong qua nhiều thế hệ sinh sống đúc rút và được tùy biến với những yếu tố tiện nghi hiện đại. Xu hướng thiết kế bản địa, bền vững, hòa hợp văn hóa chắc chắn sẽ là xu hướng tốt nhất để giải quyết những vấn đề kiến trúc ở những vùng di sản thiên nhiên. Những công trình theo cách làm này tại vùng đất này đã, đang và sẽ tiếp tục đi vào hoạt động một cách thành công và thu hút đông đảo khách du lịch là câu trả lời rõ ràng nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Kết quả Tổng điều tra dân số (2019). Trung tâm Tư liệu và Dịch vụ thống kê, Tổng cục Thống kê.
- Vũ Quốc Khánh (chủ biên) (2013). Người Hmong ở Việt Nam. NXB Thông tấn.
- Trần Hữu Sơn (1996). Văn hóa dân tộc Hmong. NXB Văn hóa Dân tộc.
- Nguyễn Khắc Tụng (2015). Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam – Tập 1. NXB Khoa học Xã hội
- Tian, Y., Wang, Z., Zhao, J., Jiang, X., & Guo, R (2018). “A geographical analysis of the poverty causes in China’s contiguous destitute areas”. Sustainability, 10 (6)